Cổ ý – Đông Chí: Đoạn Mộng (1)

Spread the love

Trên Thiên sơn tuyết phủ có người mù ở. Mùa đông, có thiếu niên mang theo bốn món bảo vật lặn lội lên Thiên Sơn xin người mù kể cho bốn câu chuyện.

Một cây kỳ kiếm… người mù đã kể câu chuyện mùa thu. Rồi đến một bức họa phong ố thời gian, lão kể câu chuyện của mùa đông. 

Quanh năm trên Thiên sơn là mùa đông, những ngày này, lúc tinh mơ cũng là thời thần lạnh lẽo nhất. Lão già thức sớm, thưởng trà sớm, tận hưởng vẻ đẹp phong tiêu của mây mờ, sương khói giăng. Thiếu niên quạt lửa pha trà, lò than đượm, hơi ấm không đủ xua đi cái lạnh, chỉ vừa đủ để dậy lên mùi hương của trà sen hái từ mùa hạ. Thiếu niên còn rất trẻ, lại có cái phong thái của kẻ từng trải, điềm đạm từ tốn. Người già và thiếu niên vô tình lại vô cùng hòa hợp vào bức tranh tuyết trắng của Thiên Sơn u tịch. 

Tuần trà đầu tiên vừa đượm. Người già nhấp một ngụm, bắt đầu câu chuyện mùa đông. Lão kể. 

“Người ta hay nói tên con cái là nguyện vọng của cha mẹ. Hắn tên là Lưu Dung, chữ Dung trong nghĩa dung dị, bình thường. Một cái tên giản dị khiêm tốn mà phụ mẫu hắn có lẽ gửi gắm ước mơ về một cuộc đời an nhiên hạnh phúc, nhưng xét theo nghĩa đó thì hắn là một nỗi thất vọng lớn lao.

Hắn là một kẻ phi thường. Bất cứ ý nghĩa nào, bất cứ sự kiện nào trong cuộc đời hắn đều rất phi thường.”

Thiếu niên lắng nghe, nhịp điệu quạt lửa đun trà vẫn đều đặn bình thản, mà trên đôi phảng phất một áng mây mù ảm đạm thoáng qua. 

Lão già mù lại tiếp tục.

“Lưu Dung sinh ra trong danh gia vọng tộc, nhiều thế hệ đỗ đạt khoa bảng, ba đời đều là lễ bộ thượng thư. Lưu đại nhân chỉ sinh được mình y, từ nhỏ thiên tư xuất chúng, tướng mạo bất phàm, lại được phụ mẫu cố công đào tạo, mời đến những danh sư bậc nhất giáo dưỡng, hứa hẹn một tiền đồ vô cùng sáng lạng. Tuy nhiên năm Lưu Dung mười tuổi thì xảy ra đại biến Hồng Vũ Môn, tru di tam tộc bát đại trọng thần phản nghịch. Lưu gia cũng thuộc vào trong tám gia tộc phải tội chết này. 

Ban đầu, Lưu đại nhân một mực kêu oan, tra khảo cách nào cũng không nhận. Cha không nhận thì hình bộ bắt con đến thay phụ thân chịu hình. Lưu thiếu gia tuổi còn nhỏ chịu đủ đau đớn cũng không nửa lời van xin, thực sự không làm nhục gia môn. 

Nhiều quan lại bấy giờ đều kính trọng Lưu gia, đồng loạt dâng sớ tâu lên Lưu thị nhiều đời lương đống, mà tha cho một dòng huyết mạch.

Lưu đại nhân nhìn nhi tử ngày ngày thay mình chịu khổ cũng không thể không nhận tội. Mười tuổi đầu, Lưu Dung từ một vương tôn công tử, đã trải qua đủ khốc hình đại lao, lại chính mắt thấy toàn gia chết chém, phụ mẫu vì mình mà hủy hoại thanh danh. Vết thương trên cơ thể trầm trọng mà vết thương trong lòng e rằng còn khó hồi phục hơn nhiều lần.

Một kẻ như y, chẳng còn đường dung thân, vốn chỉ có thể làm khất nhi, hoặc bán mình làm nô lệ. Lưu Dung bị ném ra ngoài phố chợ, có lẽ đã không sống được nếu, Hầu gia không tìm thấy y. 

Hầu Toàn Phương, sở hữu Phong Hỏa tiêu cục, tính tình khẳng khái nhân hậu, đã từng nhận ơn của Lưu gia, bất chấp điều tiếng, đã đưa Lưu Dung về chăm sóc. Lúc Hầu gia tìm thấy y, xương cốt trên người Lưu Dung đều gãy hết, sinh mạng chỉ còn thoi thóp. Người trong Hầu phủ không ai nghĩ đứa trẻ sống được, vậy mà Hầu Toàn Phương bất chấp ngày đêm, hết lòng chăm sóc, không kể tiền bạc, thuốc thang cứu mạng Lưu Dung.

Thật không ngờ, Lưu Dung thực sự đã sống, vài tháng sau đã có thể ngồi dậy xuống giường. Hầu Toàn Phương dành hết tình thương cho y, công tử Hầu gia, Hầu Phương Dật, không chút ganh tị mà đối với y chẳng khác nào tiểu đệ. Bọn họ không chỉ cứu y một mạng, còn mở cho y một con đường mới, trở thành tiêu sư, nhập giang hồ, làm lại cuộc đời. Quả thật ơn trọng như núi. 

Lưu Dung đối với hầu gia cũng rất mực hiếu kính. Tuy nhiên ở lại Phong Hỏa tiêu cục không bao lâu, Lưu Dung lại đột nhiên mất tích. Hầu Toàn Phương dốc hết toàn lực, nhờ cậy khắp nơi tìm kiếm cũng không chút tin tức gì. Lúc đó ai nấy đều cho rằng những kẻ cựu thù trong triều của Lưu gia tìm đến diệt cỏ tận gốc.

Hầu Toàn Phương không bỏ cuộc, vẫn cứ nhất mực truy tìm, sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Cũng vì việc đó mà gia sản chút nữa đã khánh kiệt.

Không ngờ bảy năm sau, Lưu Dung đột nhiên xuất hiện. Ngày y tái xuất, chính là mang theo chiến thư khiêu chiến đương kim minh chủ võ lâm, cũng là tay kiếm vô địch thời bấy giờ: Vô Danh kiếm, Thiên Ngoại Mặc Ngôn.”

Và lão già mù kể chuyện cầm lên bức họa trên bàn, trao cho thiếu niên. Bức họa này là do thiếu niên mang đến nhưng chính y cũng chưa một lần được mở ra xem thử bên trong vẽ gì. Bức họa vừa dở ra, khiến y toàn thân lạnh toát.  

Tuyết bên ngoài như ngừng rơi, than trong lò vụt tắt, hơi ấm của những chung trà sớm tựa đã hóa thành băng.

Người thiếu niên hai mắt mở trừng trừng, nhìn vào bức họa như cổ, vẽ lại chính là trận chiến của chàng thiếu niên Lưu Dung và Vô Danh kiếm ngày trước.

Núi cao chót vót, vách dựng thẳng đứng, cao đến nỗi cả loài chim ưng núi cũng chẳng thể bay qua là nơi ở của một họa sư mù. Nghe nói ông ta tự móc mắt mình ra để không nhìn thấy hình hài mà nhìn được vào chân tâm của vạn vật. Cũng vì vậy, mỗi lần võ lâm có quyết đấu quan trọng đều là hẹn ở đỉnh núi này. Họa sư vẽ không phải là cao thủ mà là đấu ý, không phải chiêu mà là đấu khí. Họa sư chỉ vẽ trận đấu của cao thủ.

Trên đỉnh núi quanh năm là xám và mây bay, có một mặt hồ nhỏ trong văn vắt, tựa ánh mắt tình nhân si đắm thiên thu. Đỉnh núi nhọn, hồ soi bóng núi, soi bóng mây trời bay, soi bóng tiết đầu đông xanh thăm thẳm và mặt trời gần chính ngọ…

Một người mặc bạch y, ngồi tựa núi, ngồi bên mặt hồ. Cái bóng của y đến đỉnh núi đá cùng với bóng đỉnh núi và bóng mặt trời đã sắp tạo thành một đường thẳng.

Trên tay bạch y nhân có kiếm, một thanh kiếm vô cùng nổi danh: Vô Danh kiếm của Thiên Ngoại Mặc Ngôn. Họa sư đã bày sẵn bút nghiêng, mực đang mài, toàn bộ tinh thần, trí lực đều tập trung vào những vòng mực tan trong nghiêng. 

Giờ hẹn sắp đến, tuy nhiên thiên hạ đệ nhất kiếm lại rất hy vọng mực không phải dùng đến, kẻ thách đấu sẽ không lên được ngọn núi khiến cả chim ưng cũng phải bỏ cuộc này. 

Mặc Ngôn đang thiền định, chầm chậm thở dài, ước vọng của ông ta đã không thành. Kẻ thách đấu đã đến rồi. 

Một thiếu niên còn rất trẻ. Quá trẻ để chết! 

Khắp thiên hạ này, kẻ trẻ tuổi như vậy có thể lên được ngọn núi dựng đứng mà cả loài chim ưng không bay lên nổi này chắc chỉ mỗi mình y.

Thiếu niên trường bào như sắc trời đông, mắt sáng như sao, thần khí như cô phong lãnh vũ. Y mang bên mình một thanh loan đao cong vút, hắc khí âm u có vẻ đã uống rất nhiều máu người. 

Đao chưa rút khỏi vỏ đã có hàn khí, người chưa động thủ đã có bá khí bức nhân. Thiên Ngoại Mặc Ngôn vì thế mà cũng không nén được một tiếng thở dài. 

Một con người như vậy, năm bảy năm nữa nhất định sẽ trở thành đại nhân vật. 

Chỉ tiếc… y sẽ không còn nhìn thấy mặt trời ngày mai nữa.

Từ sau khi Thần Kiếm sơn trang chìm trong biển lửa, Kiếm Thần tuyệt tích thì trong võ đạo chỉ có Vô Danh Kiếm độc bộ thiên hạ. Một chiêu Thiên Ngoại Hữu Thiên suốt gần mười năm nay chưa từng có đối thủ. Mười năm uy chấn giang hồ, kinh nghiệm, nội lực, khí thế, Mặc Ngôn đều đã đạt tới tột đỉnh. Y tiếc tài cho gã thiếu niên, buột miệng nói.

“Trận đấu này hãy đợi thêm mười năm nữa.”

“Không thể.” Thiếu niên đáp, vô cùng khẳng khái.

“Ngươi tuổi đời còn rất trẻ, sợ gì mười năm không đợi được?” 

Thiếu niên trả lời.

“Người không thể chờ là tiền bối.”

Mặc Ngôn”a” lên một tiếng, không nói gì thêm nữa. Y hiểu cái ý đó. Mười năm nữa, y đã sắp đến tuổi trở thành một lão nhân, dù muốn dù không cũng chẳng còn cái hùng phong của ngày nay.

Trận đấu không cách nào vãng hồi nữa. Cũng không còn cần nhiều lời. 

Mặt trời đã chính ngọ. Họa sĩ dừng tay mài mực. Sắc mực cũng đã đến độ, lông bút ngâm cũng đã đủ mềm.

Thời khắc đã đến. Trận đấu bắt đầu, họa sĩ không nhìn thấy,  chỉ cảm thấy. Khí! 

Bá khí.

Mặt trời chính ngọ kẻ một đường thẳng đến đỉnh núi, đến chỗ Mặc Ngôn tọa định, phản chiếu xuống mặt hồ trong vắt.

Mây trời bay ngang, dịu dàng như khăn lụa vắt ngang. 

Kiếm đã rút.

Mặt nước tĩnh. Mây tĩnh, gió trên núi cũng đã tĩnh lặng.

Thiên ngoại hữu thiên, chỉ một chiêu duy nhất chưa từng ai không ai phá nổi.

Thiếu niên rút đao. 

Một thanh đao cong, sắc đao cũng như sắc nước … lặng và trầm sâu.

Mặt trời rọi trên thân đao, nhưng sắc đen đặc đến độ không một chút phản chiếu.

Y rút đao chậm cũng như kiếm khí lan đến trầm và chậm. Tất cả đều dồn nén lại trong một khoảnh khắc duy nhất.

Họa sĩ vẽ. Khí đọng trên giấy, hóa thành vô cực.

Gió động, mây động.

Sắc mây nhạt và sương mù tỏa.

Kiếm xuất.

Đao xuất.

Kiếm tựa dương quang. Đao sẫm màu, sẫm như cái bóng của thái dương chính ngọ.

Trên Thiên Sơn trăm năm sau đó, bức họa của họa sĩ mù lại được mở ra. Người thiếu niên nhìn chằm chằm vào bức họa, hai mắt chừng như sắp chảy máu. Mồ hôi lạnh tươm toàn thân, y ngây người như tượng suốt một tuần trà. Đột nhiên y đứng phắt dậy, thốt ra chỉ một chữ “Tuyệt!”.

Lão già mù từ từ gấp lại bức tranh. Thiếu niên bấy giờ mới nhận ra mình thất thố, vội vàng ngồi xuống. Người già không chấp, chỉ hỏi.

“Kết quả như thế nào?”

Đôi mày thiếu niên nhăn tít. Y ngẫm nghĩ rồi đáp.

“Trận đấu này không có người chiến thắng.”

Thiếu niên Lưu Dung hạ chiến thư, đương kim minh chủ võ lâm hội chiến trên ngọn Cô sơn trở xuống tự nhận mình đã bại. Câu chuyện đó đã trở thành một truyền kỳ võ lâm. Nhưng bản thân Lưu Dung chưa bao giờ xác nhận chiến thắng của mình. Hư thực trận chiến ra sao, chỉ có bức tranh của họa sĩ mù là bằng chứng duy nhất. 

Giang hồ lắm kẻ đã từng bỏ vàng bạc vô kể ra để mua về bức tranh vẽ trận chiến trên cô sơn, rồi lại thỉnh cho kỳ được Nhãn Thiên Tinh, kẻ có đôi mắt đọc được khí, để xem thực hư bức bức tranh. Nhãn Thiên Tinh đã phán “đao thắng kiếm.” Y còn bình luận một câu nổi danh về thanh đao của họ Lưu rằng: “Đao, không chỉ có thể lấy mạng người, mà còn có thể cắt đứt được giấc mộng của người ta.” Cái tên Đoạn Mộng đao của Lưu Dung cũng chính là bắt đầu từ đó. 

Chuyện một thiếu niên vô danh đánh bại kiếm thủ đệ nhất lưu trở thành truyền kỳ, khiến biết bao anh hùng nghe đến rạo rực ý chí. Nhưng gã thiếu niên trên Thiên sơn thì lại rất trầm tư.

Y chậm rãi dọn dẹp nước trà đổ ngã vì một chút kích động của mình, mỗi động tác đều rất chậm rãi, từ tốn, tỉ mỉ. Lão già mù chờ cho thiếu niên dọn dẹp xong, mới nói:

“Tiếp tục đi.”

Thiếu niên rất thận trọng từng lời nói của mình.

“Bức tranh có đấu ý, lại không có sát khí. Trận đấu năm xưa chưa từng diễn ra thực sự.”

Lão già mù thinh lặng ra hiệu cho y tiếp tục:

“Lưu Dung xảy ra gia biến, lưu lạc giang hồ khoảng chừng mười, mười một tuổi. Đến lúc xuất đạo thành danh cũng chỉ bảy tám năm sau. Bảy, tám năm, là một thời gian quá ngắn để một người chưa từng học võ công luyện thành một chiêu thức tuyệt luân vô khuyết như thế này. Vãng bối cho rằng, từ trước khi bắt đầu, Thiên Ngoại Mặc Ngôn đã tiếc tài cho một thiếu niên xuất chúng nên đã cố tình chỉ dùng đấu ý so tài. Kiếm ý đấu đao ý. Trong trận đấu ý và đấu khí này, đao thắng kiếm. Tuy nhiên vẫn là Lưu Dung nợ Mặc Ngôn một mạng. Y không dám nhận thắng là phải đạo, kẻ tiền bối như Mặc Ngôn, dũng cảm nhận thua cũng xứng danh một đại trượng phu.”

Thiếu niên khẽ thở dài. Y chợt nhìn chăm chăm vào bức họa đã cuốn lại, lại thở dài lần nữa. Y nói.

“Đoạn Mộng Đao… vãng bối khi nhìn thấy kiếm của Kiếm Thần những tưởng đã nhìn thấy thứ thần binh tuyệt thế, vô địch nhưng đao Đoạn Mộng cũng không hề thua kém. Thần khí bá nhân tuyệt đối vô song, thứ tịch mịch trong tâm khảm cũng tuyệt đối vô song.” 

Mấy lời cuối cùng dường như là một lời tự thán ít nhiều bi ai. 

Lão già kể chuyện đôi mắt mù nhưng tâm không mù. Lão dĩ nhiên cảm thấy hết những u uất trong lời của thiếu niên. Tuy nhiên lão không hỏi đến chuyện người khác. Chuyện của lão là kể những câu chuyện đã qua 

“Phải. Kiếm của Kiếm Thần là đệ nhất của kiếm. Đao của Lưu Dung là đệ nhất đao. Nhưng Lưu Dung không giống như Kiếm Thần. Kiếm Thần, người ta chỉ nhớ đến kiếm của y mà quên mất con người y, Lưu Dung, người ta hồ như chỉ nhớ đến con người y mà đôi khi quên cả thanh đao của y.”

Và lão lại tiếp tục, câu chuyện của mùa đông.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

error: Content is protected !!