Cổ ý – Thu phân: Du Tử (3)

Spread the love

Không phải lúc nào tôi cũng quanh quẩn trong nhà. Có vài khách hàng muốn tôi đến gặp tận nơi. Thông thường, đều là những khách hàng rộng rãi, một chuyến đi đủ cả năm thu nhập. 

Cứ sau khi kiếm khách đến thăm vài ngày là đên trung thu, dịp tết đoàn viên, cũng là lúc tôi đến gặp một trong số những khách hàng lạ lùng và rộng rãi nhất của mình ở Nguyệt lầu.

Nguyệt lầu, lầu trăng, vốn là một cái tên rất thông dụng, bày trí cũng rất bình thường, không có gì nổi bật. Có chăng là trà chủ nhân pha rất ngon, bánh trung thu cũng rất tân kỳ, đặc sắc, có cảm giác người làm đã dồn hết tâm tư, làm ra để chờ một ai đó.

Tôi chưa bao giờ thấy mặt chủ nhân của Nguyệt lầu, chỉ biết là một người đàn bà luôn ngồi sau rèm trúc. 

Nàng yêu cầu tôi kể chuyện, chuyện gì cũng được, chỉ cần nghe tiếng người. Nàng nói nàng giống như chim trong lồng nguyệt này, không thể bay đi đâu, không thể nhìn quá đường viền của thanh trúc mênh mang, chỉ có thể nghe chuyện tôi kể. 

Tôi kể với nàng đủ loại chuyện, đủ loại người, chỉ trừ câu chuyện về những khách hàng mà tôi phải giữ bí mật về thân thế. 

Đêm tàn, trăng lặng, là lúc tôi nhận tiền rời đi. Từ lúc đến đến lúc đi, không nghe nàng nói lời nào, cũng không bao giờ thấy mặt nàng. Có lẽ, những câu chuyện của tôi không làm nàng thỏa mãn, nên lúc nào tôi cũng để lại một quẻ bói.

“Ta là một thầy bói, nếu chỉ kể chuyện nhân tiền thì đã làm sai nghề rồi. Quẻ bói của ta đặt trên bài cô nương coi cũng được, đốt đi cũng không sao.”

Có bao giờ nàng mở những quẻ bói đó ra?

Chúng chỉ là những địa điểm, khác nhau. Những địa điểm mà tôi biết kiếm khách sẽ đến sau khi rời khỏi Bàng Khê.

Năm đó, rèm trúc mở, cô nương trên Nguyệt lầu pha trà chờ tôi dưới ánh trăng. Mái tóc xõa chỉ cài một hoa cúc xanh, đôi mắt dài như lời chia tay của dương liễu. Sống mũi thẳng, khuôn miệng nhỏ nhắn, hài hòa cùng khuôn mặt mang một vẻ đài các xa vời. Cô nương đó, nếu chỉ dùng một chữ “đẹp” để diễn tả, e rằng đã có lỗi với nàng. Cái đẹp chính là nằm trong bầu không khí bao quanh nàng, vốn dĩ mang một niềm tuyệt vọng.

Nàng vừa rót trà, vừa nói:

“Đa tạ. Bao nhiêu năm qua, đều nhờ có huynh xem bói mà vận hạnh của ta thật hanh thông.”

Tôi không đáp, cũng chẳng biết đáp thể nào.

“Nhờ có quẻ bói năm ngoái của huynh mà ta sắp sửa xuất giá, lấy được người chồng cao sang, nên muốn đích thân cảm tạ huynh.”

Vậy là cuối cùng cô ấy cũng đã xem quẻ bói của tôi ư? Tôi nhìn quanh tòa lầu, cảm thấy không thoải mái nên tìm chuyện để nói.

“Cô nương muốn xem một quẻ bói nữa không?”

Nàng lắc đầu.

“Không… không cần đâu.”

Tôi im lặng, lại chợt để ý tòa lầu có phần trống trải.

“Cô nương đã bắt đầu chuyển nhà rồi ư?”

Nàng có vẻ ngạc nhiên. Đôi mày thanh mảnh nhíu lại một chút, rồi chợt nhớ ra điều gì, mới nói:

“Thì ra huynh cũng nhận ra trống trãi. Có lẽ lũ hồ điệp đã đi hết rồi…”

Thiếu nữ kể, giọng điệu của nàng không có gì thay đổi, trong vắt, đều đặn, cơ hồ là một sự chán chường. Giờ thì tôi mới nhận ra, vì tấm rèm trúc vén lên, người đã ra mặt, tôi mới thấy lạ. Đúng vậy, sau bức rèm từng là cái bóng của những con bươm bướm dập dìu bay.

“Ta ở nơi này, làm bạn với hồ điệp. Đặc biệt có một con hồ điệp đã nuôi rất lâu: Hiểu Mộng hồ điệp. Tương truyền đó là loại hồ điệp sinh ra từ tơ của nhện độc ngàn năm, vô cùng diễm lệ nhưng hễ đậu lên da thịt người nào thì nhất định hút cạn máu người đó. “

Nàng nhẹ cười, thật nhạt nhòa và tàn tạ như một đóa sen cuối mùa thu.

“Nhưng Hiểu Mộng Hồ điệp cũng không phải con nào cũng là cực độc, cực ác, đậu vào ai thì phải giết người đó. Nó cũng là một loài hữu tình, giống như giấc mộng của Trang Chu. Giấc mộng buổi sớm thường rất đẹp, Hiểu Mộng Hồ Điệp cũng rất đẹp, cái đẹp của chúng chẳng những có thể giết người mà còn có thể cứu người.

Ta vốn là một người luyện bướm. Lúc dồn hết tâm huyết cho con hồ điệp này, ta từng nghĩ biết đâu nó có thể… giúp một ai đó. Nhưng giờ thì không cần thiết nữa. Ta cũng sắp đi lấy chồng rồi, con hồ điệp này cũng không tiện mang theo nữa. Ta lại không nỡ giết nó đi nên đã đem tặng một người khác. Cô nương ấy cũng muốn học nuôi hồ điệp, cũng sắp đi lấy chồng. Huynh nói xem con hồ điệp của ta có hạnh phúc không?”

Nàng mỉm cười, chẳng phải với tôi cũng chẳng phải với hồ điệp đã cho đi.

Mùa thu năm đó lạnh, đêm dài âm u, mặt trăng lẩn khuất. 

Cô nương trên lầu không muốn tiễn khách, tôi cũng không muốn đi. Đường tối quá, biết khi nào sẽ đổ mưa?

Ngọn nến trên bàn chảy hết đã tắt rồi, trăng ẩn sau mây, mưa không đổ chỉ đỏ bầm một vòm trời nặng trĩu. Nàng thì thầm, giọng khẽ đến độ lẫn vào một chiếc lá bay:

“Ta sinh không có cha mẹ, không có người thân, chỉ có sư phụ và sư huynh đệ đồng môn. Nhà của ta ở Vô Nhai.

Có một lần, khi còn bé ta hỏi sư phụ mình:”Tại sao chúng ta lại không bao giờ được đi khỏi Vô Nhai Cốc, sống cuộc đời bình phàm như lũ trẻ dưới núi.”

Sư phụ ta đáp:”Người ta sinh ra hầu như đều không biết rõ mình sẽ trở thành cái gì, nhưng các ngươi thì biết. Các ngươi sinh ra để trở thành những kẻ vĩ đại.”

Ta lại hỏi ông ấy:”Kẻ vĩ đại có chết không?”

Sư phụ đáp:”Bất luận là kẻ nào, tất thảy đều phải chết, tuy nhiên kẻ vĩ đại chiến thắng cái chết bằng một cách khác.”

Ta hỏi:”Bằng cách nào?”

Ông ấy trả lời:Bằng cách lưu danh thiên cổ.”

Ta lại hỏi ân sư: “Thiên cổ gồm những ai?”

Sư phụ lại trả lời: “Những kẻ đang sống và những kẻ chưa sinh cho đến mãi về sau.”

Lúc đó ta quay đi và mỉm cười với đại sư ca của mình. 

Huynh ấy đang ngồi trên một tảng đá cao bên hồ nước, nhìn ta bằng một cái nhướng mày.

Chúng ta không cần phải nói thành lời. Lúc đó chúng ta đều hiểu, chúng ta không cần đến cái gọi là “thiên cổ lưu danh”, “Thiên cổ” tất thảy đều là những kẻ chúng ta không quen biết, không cần biết, cũng không muốn biết. Trên đời này, ta chỉ cần biết có sư huynh, huynh ấy cũng chỉ cần biết đến ta vậy là đủ.

Sư huynh lạnh nhạt và im lặng, huynh ấy thích ánh sáng, thích khí trời, ghét những hơi chật hẹp tối tăm. Huynh ấy ít khi cười, nhưng lại rất giỏi làm ta cười. Huynh ấy rất ít nói nhưng rất giỏi lắng nghe.

Lúc đó ta nghĩ trên đời này chỉ cần có sư huynh, ta không cần gì nữa, không cần gia đình như những đứa trẻ khác, cũng không cần con người xung quanh. Bọn họ tất thảy đều không thể sánh bằng sư huynh.

Huynh ấy là một kiếm sĩ vô song. 

Ngươi biết không, có nhiều người sinh ra không biết vì sao mình sống hay mình yêu thích điều gì. Còn sư huynh, huynh ấy biết.”

Có một thoáng trăng lộ sau mây, trong mắt nàng có lệ. 

Môi nàng thì vẫn cười. Một nụ cười xót xa.

“Sư huynh của ta yêu kiếm.”

Nàng hơi cuối mặt. Tôi tưởng nàng sẽ khóc, nhưng lúc đó đôi mắt nàng lại có lại vẻ điềm tĩnh, giống như mặt hồ mùa thu yên bình…

Bên dưới mặt hồ đó, có bao nhiêu là đắng cay ?

“Có một ngày, Vô Nhai cốc rất xôn xao. Bởi vì hôm đó có người trong cốc đòi ly khai. Bất luận là kẻ nào, nếu muốn rời khỏi Vô Nhai đều phải qua được kì sát hạch của các trưởng lão và nguyện suốt đời trung thành với chủ nhân. Những kẻ tự ý muốn ly khai Vô Nhai Cốc đều phải chịu cực hình phế hết võ công, thậm chí còn phải uống Ly Biệt Than để quên hết tất cả kí ức. Cuối cùng người ta sẽ thả y xuống một cái giếng sâu gọi là Thu Linh tĩnh, nghe nói dưới đó là một mê cung vô cùng phức tạp, có vào mà không có ra, bỏ mặc y tự sinh tự diệt. Nếu may mắn rời khỏi Thu Linh Tĩnh thì xem như y mạng lớn, từ nay không còn bất cứ quan hệ gì với Vô Nhai cốc.

Mùa thu năm ta mười hai tuổi ta đã đi tìm sư huynh để đến xem lễ trục xuất kẻ muốn rời khỏi Thiên Nhai. Nhưng ta không tìm được.

Mãi đến khi trời tối ta mới biết kẻ muốn bỏ đi ấy, lại chính là sư huynh của ta.

Huynh ấy bị tra tấn đến độ xương cốt đều gẫy hết, đừng nói là võ công mà sinh mệnh xem ra cũng khó giữ được. Bọn họ cho sư huynh uống Ly Biệt Than và đưa huynh ấy đến Thu Linh Tĩnh.

Ta đi theo.

Rơi nước mắt.

Huynh ấy nhìn ta.

Lúc đó ta không hỏi huynh ấy vì sao huynh ấy lại muốn ly khai, cũng không hỏi huynh ấy có trở về để đón ta đi không ?

Ta đã nghĩ có những thứ không cần phải nói ra.

Nhất định huynh ấy muốn được tự do là để có ngày trở lại đón tay đi.

Trước khi họ thả huynh ấy xuống giếng, ta cầm chặt tay huynh ấy. Ta nói :Ta sẽ sống hạnh phúc và sẽ gặp lại huynh.”

Huynh ấy siết chặt tay ta, gượng gượng cười : «Muội hát đi, cho ta biết đường trở về. “

Và người ta ném sư huynh xuống giếng.

Ta đứng trên miệng giếng. Ta hát Du Tử Ca…”

Trăng lại mất dạng rồi. Người đàn bà rời khỏi bàn, lang thang trong bóng tối của tòa lầu âm u, có lẽ đã hóa thành một hồn ma. 

Tôi vẫn thấy cái bóng mờ của nàng bỏ lại bên cạnh bàn và giọt nước mắt lẫn vào trong lệ nến đã khô cứng. 

“Khi ta hai mươi tuổi, là lúc ta vượt qua những bài khảo nghiệm ở Vô Nhai, chỉ cần ta đọc lời tuyên thệ trung thành là ta có thể rời khỏi và bắt đầu sứ mệnh của mình. Nhưng ta không đọc thời thề, cũng không thể đi. Nếu ta đi, làm sao sư huynh trở về tìm được ta?

Năm ta hai mươi bốn tuổi, Mộ Dung Thành, Vô Nhai chủ nhân đến gặp ta và nói rằng ông ta sẽ cho ta thời hạn một năm để rời khỏi Vô Nhai Cốc, làm một người tự do. Nếu sau một năm ta tìm được người mà ta muốn tìm và y vẫn còn yêu thương ta thì ông ấy sẽ để chúng ta ra đi. Nếu ta thất bại thì vĩnh viễn ta sẽ là người của ông ấy.”

Ta hỏi:

“Cô có thành công không?”

Nàng bật cười, giòn dã, hạnh phúc:

“Tìm được rồi. Cuối cùng ta cũng hiểu được huynh ấy nghĩ điều gì. Cuối cùng, ta cũng có thể tin những điều không dám tin trước đây. “

Tôi có lẽ nên chúc mừng nàng, vậy mà một tiếng cũng không thể nói ra. 

Nàng lại nói:

“Huynh chắc sẽ được mời đến hôn lễ của ta.”

Tôi uống cạn chén trà như uống rượu. Phải chi nàng hỏi tiếp thêm vài lời… phải chi nàng trách móc…

“Huynh không chúc mừng ta sao?” Nàng hỏi.

Tôi rót đầy ly trà, lại uống lần nữa, trà nguội chát ngắt trên đầu môi:

“Chúc mừng.”

Nàng cũng mỉm cười.

Chẳng có quẻ bói nào được viết ra năm đó ở Nguyệt lầu. Kẻ đã định chung thân đại sư là đã phó mặc bản thân cho trời.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

error: Content is protected !!